Рет қаралды 8,262
VỀ NHỮNG BÀI HÁT RA ĐỜI TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN
Trong đội ngũ chiến sĩ, có lẽ không có ai lại không biết bài hát “Hành quân xa”. Và chắc ít người biết rằng ca khúc này ra đời rất mau lẹ, được tác giả hoàn thành trong vòng chỉ một tiếng đồng hồ. Dạo ấy là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Trước đòi hỏi của bộ đội, nhạc sĩ Đỗ Nhuận từ lâu đã ấp ủ ý định sáng tác một bài thể hành khúc cho chiến sĩ vừa hành quân vừa hát. Nhưng dự định mãi vẫn chưa viết ra được.
Trong một khóa học chính trị, được gặp Bác, Đỗ Nhuận bày tỏ băn khoăn với Bác về việc sáng tác hành khúc. Người đã trao đổi với nhạc sĩ:
"Thế bấy nay chú viết ra sao? Theo Bác thì chú cứ sáng tác thế nào cho đông đảo cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thích là được."
Câu nói hết sức giản dị của Bác đã có sức gợi mở lớn đối với Đỗ Nhuận. Một lần, ông cùng một tốp cán bộ hành quân đi bộ từ Đại Từ (Thái Nguyên) qua đèo Khế, đến Thượng Bàng La (Yên Bái). Đi vậy chứ thực ra mấy anh em cũng không biết sẽ tập kết ở đâu. Họ cùng nhau bàn luận, phán đoán ý đồ tác chiến của cấp trên. Bỗng một người trong tốp nói: “Thôi, khỏi cần biết, đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi mà”. Thế là câu nói tình cờ ấy trở thành cái tứ văn học để Đỗ Nhuận phát triển thành “Hành quân xa”. Và bài hành khúc nổi tiếng này đã xoáy vào cái ý đó, đã tập trung làm nổi rõ chủ đề tư tưởng “đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi”. Có thể nói đây là một sáng tác mẫu mực cho thể hành khúc. Bài hát được viết ở thể 1 đoạn gồm 4 câu nhạc rất cân đối, vuông vức. Âm vực toàn bài được khống chế trong vòng một quãng 8 là quãng lý tưởng đối với quảng đại quần chúng vì dễ hát. Tuy vậy, do cách sắp đặt các vòng hòa âm và giai điệu có sự biến động ít nhiều về tiết tấu mà bài hát giản dị nhưng vẫn phong phú về màu sắc, không bị đơn điệu. Khác với “Du kích ca” trước đó, Đỗ Nhuận đã xử lý “Hành quân xa” hoàn toàn dựa trên cấu trúc của điệu thức dân tộc. Nó xứng đáng là một bài hành khúc tiêu biểu của bộ đội Việt Nam với đặc điểm là đại bộ phận chiến sĩ đều xuất thân từ ruộng đồng, là những người nông dân mặc áo lính.
Trong chiến dịch Điện Biên, trận Him Lam là trận thắng đầu tiên của chúng ta. Lúc ấy Đỗ Nhuận cùng với Trần Ngọc Xương, Nguyễn Văn Tiến ở trong tổ sáng tác có mặt tại đó. Đứng trên bờ chiến hào, các anh vừa đàn vừa hát cổ vũ các chiến sĩ đang hành quân ở dưới. Trong đoàn quân đó có một chiến sĩ nói với các nhạc sĩ:
Cố gắng sáng tác nhiều nhé, khi về bọn mình sẽ có quà cho văn công.
Người chiến sĩ nói câu ấy không bao giờ trở về nữa vì anh chính là Liệt sĩ Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận Him Lam. Sau này Đỗ Nhuận mới biết rõ.
Và một bài hát đã được ông sáng tác ngay tại trận địa, giữa bề bộn ngổn ngang xác xe pháo và quân thù, trong mùi khói khét lẹt của đạn bom: “Hôm qua, đánh trận Điện Biên, chiến hào xuất kích, đồi Him Lam ta tiến vào, đột phá tiêm dao tiến đánh vào”... Đó là bài “Trên đồi Him Lam” - một ca khúc hừng hực khí thế chiến đấu, sôi sục lòng căm thù giặc, nồng nàn tình yêu quê hương đất nước và tình đồng đội. Bài hát cũng được tác giả cấu trúc ở thể 1 đoạn gồm 4 câu nhạc nhưng mỗi câu đều được mở rộng, khá dài, vì đây là bài ông nhằm viết cho hát đơn ca. Đến nay, mỗi khi nghe lại “Trên đồi Him Lam”, ta như được sống lại bối cảnh hào hùng, quyết liệt của những ngày đầu tiên, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nếu ai đã có dịp chiến đấu ở Điện Biên Phủ chắc không thể quên một công việc rất đỗi nặng nhọc nhưng sôi nổi hào hứng. Đó là kéo pháo vào trận địa. Lúc ấy để bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, ta chủ trương dùng sức người để kéo pháo. Hơn ở đâu, công việc này đòi hỏi sự hiệp đồng chặt chẽ, sự đồng tâm nhất trí cao. “Hai ba nào! Hai ba nào!”. Những tiếng hô vang - tín hiệu của sức mạnh và niềm tin. Nhạc sĩ Hoàng Vân có mặt ở Điện Biên Phủ và đã từng tham gia kéo pháo cùng các chiến sĩ. Ông đã mục kích sự hy sinh anh dũng của Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn để cứu pháo. Nhạc sĩ suy nghĩ nhiều đến một bài hát mang tính tập thể, có xướng, có xô. Ông nghĩ đến một bài hò đang được bộ đội hát nhiều lúc ấy: “Hò dô ta, lặng mà nghe, mà nghe câu hò” nhưng cảm thấy âm điệu rất cổ, gợi lên dáng dấp sinh hoạt của một thời xa xưa. Một bài hò hiện đại đang được nhạc sĩ hình thành. Ông kể là đã ngồi ghi nhạc trong một lán nhỏ, phải chùm chăn kín chân vì muỗi vàng đốt như ong châm. Cảnh lao động hùng vĩ giữa núi rừng hiểm trở được tác giả ghi bằng những âm điệu gẫy khúc và nhảy quãng liên tục. Chưa bao giờ, đối với ông, những hợp âm 3 bị lãng quên; vậy mà ở đây, lần này, trong ông không hề vang lên âm điệu của những hòa âm quãng 3. “Hò kéo pháo” đã ra đời mang dáng dấp một bài hò hiện đại, vừa có xướng, vừa có xô, rất phù hợp với không khí kéo pháo khẩn trương sôi động, gian khổ, vất vả nhưng thoải mái, hân hoan: “Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi. Dốc núi cao cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi. Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...”.
[...]